img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ bốn chữ, năm chữ| Văn 7 tập 1 Cánh diều

Tác giả Hoàng Uyên 11:59 22/05/2024 1,148 Tag Lớp 7

Những bài thơ bốn chữ, năm chữ tuy ngắn gọn nhưng chúng lại để lại rất nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả. Bởi vậy, chủ đề Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ bốn chữ, năm chữ là một chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm từ các bạn học sinh. Cùng theo dõi bài soạn dưới đây để biết cách viết những đoạn văn về chủ đề này nhé!

Soạn bài Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ bốn chữ, năm chữ| Văn 7 tập 1 Cánh diều
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

Soạn bài Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ bốn chữ, năm chữ

1. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc bài thơ “Mẹ” 

1.1 Bài tham khảo 1

Khi đọc tác phẩm "Mẹ" của tác giả Đỗ Trung Lai, trái tim em như bị xuyên thấu vì những cảm xúc hết sức sâu lắng và tinh tế của tình mẫu tử. Ngay từ những dòng đầu tiên, bài thơ đã tạo nên một không gian cảm xúc đặc biệt, nơi mà người đọc không chỉ đơn thuần là đọc từng dòng chữ mà đó còn là trải nghiệm rất sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng. Tác giả không chỉ sử dụng riêng ngôn từ, mà còn sử dụng cả hình ảnh và so sánh một cách tinh tế để thể hiện về tình cảm của người con đối với người mẹ. Sự đối chiếu giữa mẹ với cây cau qua những cụm từ như "Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng" hay "Cau - ngọn xanh rợn, Mẹ - đầu bạc trắng" không chỉ là sự so sánh về vẻ ngoại hình mà còn là sự so sánh về cả tâm hồn, về sức mạnh lẫn ý chí. Hình ảnh "Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ" không chỉ là sự mô tả về vẻ bề ngoại hình mà còn biểu hiện về sự già nua và yếu đuối trong tâm hồn mẹ. Đây là lời ca ngợi vô cùng sâu sắc đến lòng mẹ, những năm tháng đã trôi qua và đã khiến cho người mẹ cũng ngày càng trở nên mong manh và đáng quý. Bài thơ không chỉ dừng lại với việc miêu tả hình ảnh của người mẹ, mà còn mở ra một tầm nhìn sâu xa hơn về thời gian và sự thay đổi trong cuộc sống. Câu hỏi cuối cùng đó là "Ngẩng hỏi trời vậy - Sao mẹ ta già" không chỉ là sự tò mò, mà nó còn chứa đựng sự tiếc nuối cùng sự nhận thức rõ ràng về sự tàn nhẫn của thời gian. Hình ảnh "mây bay về xa" không chỉ là một hình ảnh thể hiện sự tĩnh lặng mà còn là biểu hiện của sự rời xa, của những khoảnh khắc không thể nào nắm giữ được. Với những cảm xúc sâu sắc cùng những suy tư chân thành về tình mẫu tử, bài thơ "Mẹ" không chỉ là một tác phẩm văn học mà nó còn là một bức tranh sống động về tình yêu thương cùng với sự hi sinh của người mẹ. Nó đã chạm tới trái tim của em, để lại những dấu ấn không thể nào phai mờ, và khắc sâu hình ảnh của một người mẹ luôn hiện hữu trong lòng em mãi mãi.

1.2 Bài tham khảo 2 

Tôi đắm chìm trong bài thơ "Mẹ" của tác giả Đỗ Trung Lai, một bài thơ chứa đầy cảm xúc dành cho người mẹ. Nó là một bản nhạc của tình thương, cung cấp cho ta cái nhìn sâu sắc về cuộc đời cùng tình yêu của người con đối với người mẹ. Bài thơ đã vẽ lên một hình ảnh vô cùng độc đáo của mẹ thông qua những từ ngữ và cả biểu tượng mà tôi không thể nào quên. Trong bài thơ, người mẹ đã hiện lên trước mắt tôi như một tượng đài vĩ đại, như một "cây cầu" ở trong cuộc đời. Hình ảnh này không chỉ là một biểu tượng, mà đó còn chứa đựng cả những bài học về cuộc sống. Cuộc sống đã làm cho người mẹ già đi, nhưng cau thì không, nó vẫn thẳng đứng. Sự đối lập giữa mẹ với cau thể hiện một sự bền bỉ và kiên định của người mẹ, còn cau, với tất cả sự xanh tươi và cường tráng của nó, không thể hiện được nhiều hơn sự thoáng qua của thời gian. Tôi đặc biệt ấn tượng với hình ảnh về "Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ". Nó làm nổi bật lên sự già nua và héo hon của người mẹ cùng với sự mâu thuẫn trong lòng của người con. Động từ "nâng" và "cầm" không chỉ để nói về một hành động, mà còn thể hiện được tình cảm, lòng trân trọng cùng sự nâng niu của người con đối với người mẹ. Trong đó, "cầm" lại càng thêm sự thấm thía và đắng cay. Cuối bài thơ có xuất hiện câu hỏi "Ngẩng hỏi giời vậy - Sao mẹ ta già" nhưng không có câu trả lời. Nó chấm dứt bài thơ một cách thảm nhưng đẹp, như một đồng hồ biểu tượng đang quay đi mà không ngừng. Hình ảnh "mây bay về xa" giống như mái tóc của mẹ bạc trắng cùng với những ước mơ cao cả của mẹ đã bay lên cao thể hiện về sự xót xa, tiếc nuối cùng lòng yêu thương sâu sắc của người con. Bài thơ "Mẹ" của tác giả Đỗ Trung Lai không chỉ là một tác phẩm thơ ca, mà đó còn là một bài học về tình mẹ, về sự hy sinh và lòng yêu thương sâu nặng, vô điều kiện. Nó khắc sâu vào trong trái tim của tôi và khiến cho tôi thêm trân trọng và yêu quý người mẹ hơn bao giờ hết.

1.3 Bài tham khảo 3 

Bài thơ "Mẹ" của tác giả Đỗ Trung Lai không chỉ là một tác phẩm văn học, mà nó còn là một tuyệt tác về tình mẫu tử sâu sắc lại huyền bí. Ngôn từ ở trong bài thơ không chỉ là những cụm từ được sắp xếp thành câu, mà là những đợt sóng cảm xúc cuộn trào mạnh mẽ và sâu lắng, là ngôn ngữ để trái tim chạm đến trái tim. Từng cánh cây cau ở trong bài thơ đã trở thành biểu tượng cho cuộc sống, và cũng chính là biểu hiện của tình mẹ. Cây cau, mặc dù có già nua và gầy còm, vẫn rất kiên định và vững bền, giống như tình yêu vô điều kiện của người mẹ dành cho con mình. Sự so sánh giữa cây cau với mẹ, qua những hình ảnh như "lưng mẹ còng rồi - cau thì vẫn thẳng", thể hiện được sự đối lập giữa ngoại hình đã thay đổi theo thời gian nhưng tâm hồn của mẹ vẫn trẻ trung, vẫn chứa đựng được nhiều sự yêu thương và hi sinh. Câu thơ "một miếng cau khô - khô gầy như mẹ" không chỉ là để mô tả hình ảnh, mà còn là sự chạm tới sâu thẳm về mặt tâm hồn và trạng thái tinh thần của người mẹ. Sự héo hon và già nua của mẹ được thể hiện rõ thông qua hình ảnh này, khiến cho người đọc không chỉ nhìn thấy được về ngoại hình mà còn cảm nhận được sự yếu đuối cùng vẻ đẹp riêng của tâm hồn mẹ. Những từ "nâng" và "cầm" ở trong bài thơ không chỉ là hành động vật chất, mà đó còn là hành động của trái tim cùng tâm hồn con người. Đó là tình cảm sâu sắc của người con đối với người mẹ, cũng là sự tri ân và trân trọng vô hạn. Câu hỏi "mẹ già, tại sao?" trở thành hồi chuông chứa đầy xúc động về sự cô đơn cũng như sự thất vọng trước sự tàn nhẫn của dòng thời gian. Hình ảnh "mây bay về xa" càng khiến cho cảm xúc của người đọc tràn ngập lòng xót thương, giống như một hình ảnh cuộc sống không ngừng thay đổi và tất cả chúng ta đều không thể ngăn cản được. Bài thơ "Mẹ" không chỉ là một tác phẩm văn học, mà nó còn là một tấm gương sáng về tình mẫu tử, là bức tranh tuyệt đẹp và chứa đầy ý nghĩa về sự hi sinh và tình yêu thương của người mẹ. Bằng cách nói ra những cảm xúc sâu sắc và chân thành, bài thơ đã có thể chạm đến lòng người và để lại rất nhiều dấu ấn sâu sắc trong trái tim của những người đọc.

>> Xem thêm: Soạn văn 7 Cánh diều 
 

1.4 Bài tham khảo 4 

Bài thơ Mẹ chính là lời của người con, bộc lộ về cảm xúc xót xa thương cảm khi thấy người mẹ ngày càng già đi, tuổi cao sức yếu, không còn sự khỏe mạnh minh mẫn như ngày xưa. Bao nỗi đắng cay và buồn vui trong cuộc đời của mẹ đều đã được miếng trầu cau chứng kiến. Nhà thơ Đỗ Trung Lai đã lựa chọn hình ảnh cây cau để ví von và so sánh với mẹ là một phát hiện rất tinh tế, nhiều biểu cảm, không chỉ về vẻ bên ngoài mà còn cả sự sâu lắng bấm đốt thời gian thân phận của một con người. Mẹ thì bao nhiêu mong mỏi nhưng rồi thời gian khắc nghiệt giống như một quy luật luân hồi ngàn đời: “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng” hay “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc trắng”. Hai sắc màu trái ngược ấy, hai hình dáng tương phản ấy tạo ra một nỗi ám ảnh cho tiếng thơ, tiếng lòng quặn bao nỗi xót xa khi “Cau gần với trời - Mẹ thì gần đất”. Chỉ qua hình ảnh của miếng cau: “Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ” cũng đủ để cảm thông héo hắt khi mà “Con nâng trên tay - Không cầm được lệ”. Hai chữ “nâng” và “cầm” đều để chỉ động thái của tình cảm. Nếu “nâng” trang trọng kính trọng thì “cầm” nén lại bao đắng cay bấy nhiêu. Từng cặp biểu cảm được song hành tạo nên bao chất chứa, lời ít nhưng vọng xa. Chính đây cũng là sự vận động trong cảm xúc của bài thơ “Mẹ” dồn nén để rồi buột ra câu cảm thán mang âm hưởng điệu hành trong nền thơ văn cổ: “Ngẩng trời hỏi vậy - Sao mẹ ta già”. Câu hỏi tự vấn đất trời cũng như là tự vấn lòng mình. Thơ đã chạm được tới nỗi người, cõi người vừa đăm đăm lại vừa trống trải. Một sự cô đơn cứ ngỡ như vô vọng: “Không một lời đáo - Mây bay về xa”. Như thế, bài thơ là nỗi xót xa thương cảm của người con trước hình ảnh vừa gầy guộc lại già nua của mẹ theo năm tháng.

1.5 Bài tham khảo 5 

“Mẹ” của tác giả Đỗ Trung Lai là một tác phẩm đem tới rất nhiều cảm xúc cho người đọc. Bài thơ là lời dãi bày của người con bộc lộ được nỗi xót xa và thương cảm khi thấy mẹ mình ngày một già đi. Cuộc đời của mẹ đã từng trải qua biết bao nhiêu nỗi vất vả, nhọc nhằn. Tác giả đã mượn hình ảnh của cây cau để nói về mẹ. Sự đối lập giữa mẹ với cau: “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng” và “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc trắng”, “Cau gần với giời - Mẹ thì gần đất” đã tạo nên một ám ảnh cho tiếng thơ cũng như tiếng lòng quặn bao nỗi thắt. Đặc biệt, hình ảnh “Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ” càng làm nổi bật thêm sự giàu nua và héo hon của người mẹ. Điều ấy khiến cho “Con nâng trên tay - Không cầm được lệ”. Hai chữ “nâng” và “cầm” đều để chỉ động thái của tình cảm. Nếu “nâng” trang trọng và kính trọng biết bao thì “cầm” lại như nén bao đắng cay bấy nhiêu. Từng cặp biểu cảm được song hành tạo nên bao chất chứa, lời ít nhưng vọng xa. Chính đây cũng chính là sự vận động cảm xúc để cuối bài nhân vật trữ tình đã phải tự hỏi: “Ngẩng hỏi giời vậy - Sao mẹ ta già?”. Câu hỏi tu từ không nhận được lời hồi đáp, để lại sự cô đơn và trống vắng. Không ai trả lời được vì sao mẹ lại già, cũng không ai có thể ngăn được guồng quay của dòng thời gian tàn nhẫn. Hình ảnh “mây bay về xa” cũng giống như miêu tả mái tóc mẹ bạc hòa cùng với mây trắng ở trên cao thể hiện về một niềm xót xa, tiếc nuối. Bài thơ thật sự cảm động, bộc lộ được nỗi xót xa thương cảm của người con trước hình ảnh vất vả, già nua của mẹ theo từng năm tháng.

1.6 Bài tham khảo 6

Bài thơ "Mẹ" của tác giả Đỗ Trung Lai thực sự là một tác phẩm thơ chất chứa đầy cảm xúc và tận cùng của lòng yêu thương. Điều đặc biệt về bài thơ ấy là cách mà tác giả đã sử dụng ngôn ngữ cùng với hình ảnh để kể về mẹ và mối quan hệ của con với mẹ hết sức chân thành. Hình ảnh của "mẹ" trong bài thơ được vẽ ra hệt như một biểu tượng của tình mẹ. Mẹ xuất hiện trước mắt người đọc với một tấm lưng "còng" rồi, trong khi "cau thì vẫn cứ thẳng." Sự so sánh ấy làm tôn thêm sự đối lập giữa mẹ với cây cau. Mẹ đã sống qua những năm tháng đầy khó khăn, và tuổi tác đã được in dấu lên vóc dáng của mẹ. Hình ảnh "Mẹ còn ngại to" khiến cho con cảm thấy rất đỗi đau lòng và xót xa. Sự so sánh giữa miếng cau với mẹ bóc lột được sự già nua của người mẹ. Miếng cau khô với mẹ già, "Khô gầy như mẹ," tạo ra một hình ảnh tương phản mạnh mẽ. Một trong những điểm đáng chú ý nhất ở trong bài thơ chính là cảm xúc của người con. Tình cảm của người con được thể hiện thông qua những từ ngữ và hành động như là "nâng," "cầm," hay "không cầm được lệ." Cảm xúc ấy khiến cho người đọc đồng cảm với nhân vật người con ở trong bài thơ. Cuối cùng, câu hỏi tự vấn đó là "Sao mẹ ta già?" thể hiện được sự bất lực và đau xót của người con trước dòng thời gian đang trôi đi và mẹ ngày càng già đi. Bài thơ "Mẹ" đã sử dụng những ngôn ngữ mạch lạc cùng với hình ảnh vô cùng tinh tế để vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh thực sự sâu sắc về tình mẹ. Bài thơ ấy khắc họa một tình mẹ bao la vô điều kiện và sự quý trọng tình thương của mẹ, khiến cho người đọc cảm thấy yêu thương và trân trọng mẹ nhiều hơn.

Duy nhất khóa học DUO tại VUIHOC dành riêng cho cấp THCS, các em sẽ được học tập cùng các thầy cô đến từ top 5 trường chuyên toàn quốc. Nhanh tay đăng ký thôi !!!!

2. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc bài thơ “Ông đồ” 

2.1 Bài tham khảo 1

Với giọng kể cùng lời thơ miêu tả hiện lên hình ảnh ông đồ vẫn ngồi đó nhưng cảnh vật xung quanh ông đã khác xưa. Ông đồ bỗng trở nên vô cùng đơn côi và lạc lõng tới tội nghiệp giữa cái chốn xô bồ và ồn ào của nền văn minh lạnh lùng kiểu đô thị cho dù ông vẫn muốn có mặt với đời. Ông đồ vẫn ngồi đó, ông vẫn kiên cường bám lấy cuộc đời, ông càng lẻ loi và càng lạc bước. Giấy đỏ và nghiên mực, hành trang gắn bó với kẻ sĩ trên hành trình sáng tạo ra những cái đẹp nhưng giờ đây cũng lặng lẽ và ủ ê trong nỗi buồn ế khách của ông đồ. Giấy bẽ bàng và buồn tủi, đỏ mà cứ thế phai dần, nhạt nhẽo không thắm lên nổi, mực không còn được bút lông chấm vào, mực cũng đọng lại giống như giọt lệ khóc. Với thủ pháp nhân hóa đầy sức gợi, Vũ Đình Liên đã diễn tả rất tinh tế nỗi buồn không nói và không cất lên được, từ lòng người đã thấm cả vào những đồ vật vô tri khiến cho mực tàu và giấy đỏ cùng trĩu nặng nỗi buồn. Người buồn, cảnh cũng thấy buồn theo. Nỗi buồn của ông đồ không chỉ chiếu lên trên nghiên mực, giấy đỏ mà còn lan tỏa và mênh mang khắp không gian, khiến cho bức tranh xuân năm ấy mang một gam màu xám lạnh, u buồn. Lá vàng rơi không nghe thấy tiếng, mưa bụi bay mà không ướt áo ai, mà nghe như có từng thu chết, mà từng thu chết cuốn ra đi theo một hình bóng của cả một lớp người. Quá khứ vàng son của ông đồ nay chẳng thấy đâu nữa. Ông và những người như ông dường như đang bị lỡ nhịp, lạc bước giữa mênh mông, bị gió cuốn, sóng xô của cơn bão táp đô thị hóa. Ông chỉ như một cái bóng vô hồn và tiều tụy đáng thương của một thời tàn.

2.2 Bài tham khảo 2 

Bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên đã mang tới cho em những rung cảm vô cùng sâu sắc. Với hai khổ thơ đầu tiên, trong không khí háo hức, hân hoan, vui tươi của Tết, ông Đồ sẽ xuất hiện với “mực tàu, giấy đỏ”. Mỗi khi hoa đào nở rộ, người đi chơi xuân lại thấy được hình bóng ông đồ già ngồi viết câu đối. Họ thưởng thức và tấm tắc khen những nét chữ giống như “phượng bay, rồng múa” của ông. Tuy nhiên, thời Nho học ngày càng suy tàn khiến cho người ta dần lãng quên đi hình bóng của ông đồ già ngồi ở trên phố với "giấy đỏ"và "nghiên mực". Hình bóng của ông hiện lên rất cô đơn và buồn tủi trong tiết trời lạnh lẽo và ảm đạm "Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay". Đối lập khung cảnh tươi vui,k và náo nhiệt ở hai khổ thơ đầu tiên, hai khổ thơ tiếp theo đã cho ta thấy được những xót thương của tác giả trước cảnh ông đồ tài năng nhưng lại bị lẻ loi và đìu hiu "Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay". Thời gian vẫn tiếp tục trôi đi. Mùa xuân tới trong sắc hồng của hoa đào nhưng lại thiếu vắng đi hình bóng thân thuộc xưa kia. Câu hỏi tu từ ở cuối bài thơ như một lời đau xót cho số phận cũng như cuộc đời của ông đồ, cho những giá trị Nho học đang dần bị mai một. Với ngôn ngữ trong sáng, nhịp điệu linh hoạt và các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh đã mang tới cho người đọc những cảm xúc sâu lắng về một thế hệ tài hoa nhưng không được coi trọng do thời thế đã thay đổi. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh về ông đồ già trong thời kì hoàng kim cùng với sự suy tàn của Nho học, từ đó bày tỏ được mong muốn thế hệ sau cần biết giữ gìn và phát triển những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc. 

2.3 Bài tham khảo 3 

Bài thơ Ông đồ là một bài thơ chất chứa đầy hàm súc, là sự tiếc nuối của tác giả về một nền văn học đã từng rất hưng thịnh. Ở hai khổ thơ đầu tiên, tác giả đã tái hiện lại không khí ngày tết xưa khi mà ông đồ còn được trọng dụng. Khi tết đến xuân về, hoa đào cũng đua nhau khoe sắc thắm, phố phường thì đông vui, tấp nập và ông đồ xuất hiện ở bên hè phố để bán đôi câu đối cho mọi người trưng trong nhà như một nét văn hóa không thể thiếu vào ngày đầu năm mới. Những nét chữ rất thanh thoát như phượng múa rồng bay, gửi gắm vào đó cả tâm hồn và tấm lòng người viết. Thế nhưng, theo dòng thời gian, phong tục treo câu đối vào ngày tết không còn được ưa chuộng nữa. Từ “nhưng” như một nốt trầm trong khúc ca ngày xuân, cho thấy được sự thay đổi trong bước đi chầm chậm của dòng thời gian. Người tri âm xưa nay cũng đã trở thành khách qua đường. Niềm vui nhỏ nhoi của ông đồ đó là được mang nét chữ của mình để đổi lại chút niềm vui cho mọi người trong dịp tết đến xuân về thì nay đã không còn. Nỗi buồn của lòng người đã khiến những vật vô tri vô giác nhất như giấy đỏ, bút nghiên cũng thấy thấm thía nỗi xót xa. Hình ảnh ông đồ xưa vốn gắn liền với nét đẹp truyền thống của nền văn hóa nho học, nay đã dần bị lãng quên “Lá vàng bay trên giấy/Ngoài trời mưa bụi bay”. Ông vẫn ngồi đó nhưng chẳng mấy ai còn để ý tới, lá vàng rơi giữa ngày xuân ở trên trang giấy nhạt phai như dấu chấm hết cho một sự sinh sôi. Hạt mưa bụi cũng nhạt nhòa bay trong cái se lạnh như muốn khóc thương, tiễn biệt cho một thời đại đang dần bị trôi vào dĩ vãng. Ta như cảm nhận được thông qua tứ thơ là tâm trạng của thi nhân, phảng phất trong đó là một nỗi xót thương, nỗi niềm hoài cổ nhớ tiếc của nhà thơ với một thời đã qua. Và câu hỏi ở cuối bài thơ như một lời tự vấn cũng là để hỏi người, hỏi vọng về quá khứ với biết bao ngậm ngùi “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?”. Ông đồ vắng bóng không chỉ đóng lại một thời đại của quá khứ, đó còn là sự mai một của truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Bài thơ đã chạm tới những rung cảm của lòng người, để lại rất nhiều suy ngẫm sâu sắc với mỗi người.

2.4 Bài tham khảo 4 

Đọc bài thơ "Ông đồ" của tác giả Vũ Đình Liên, em lại thấy ấn tượng hơn với hình ảnh ông đồ già. Theo sự tuần hoàn, khi mà hoa đào mùa xuân nở, ta lại gặp hình ảnh của ông đồ xuất hiện bên những dụng cụ "mực tàu, giấy đỏ". Trong không khí náo nhiệt và tưng bừng của Tết, người đi chơi xuân sẽ dừng bước, ghé vào để thưởng thức, ngưỡng mộ và tấm tắc trước nét chữ "Như phượng múa, rồng bày" được ông đồ già viết ra. Nhưng thời thế thay đổi, Nho học cũng suy vi và đi vào quá khứ, con người cũng theo đó mà lãng quên những giá trị tốt đẹp khi xưa. Xuân lại tới, ông đồ cứ ngồi cô đơn, lẻ loi cùng với "giấy đỏ", "mực tàu" và "nghiên bút". Cảnh vật như được nhuốm màu tâm trạng, trở nên lạnh lẽo, đìu hiu và buồn bã "Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay". Không còn ai nhớ đến hình bóng ông đồ già ngồi bên những cành đào hồng thắm. Câu hỏi tu từ "Hồn ở đâu bây giờ?" như một lời thương xót và tiếc nuối cho một lớp người tài hoa nhưng vì thời thế thay đổi mà dần bị đi vào lãng quên. Bằng thể thơ năm chữ vô cùng ngắn gọn, ngôn ngữ giản dị kết hợp với những biện pháp tu từ nhân hóa "Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu" và so sánh "Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay" mang tới hình ảnh hoài niệm về ông đồ già. Qua đó, bài thơ đã bộc lộ được niềm tiếc thương chân thành trước những con người vô cùng tài hoa, những giá trị văn hóa truyền thống thật tốt đẹp.

2.5 Bài tham khảo 5

Có thể nói, bài thơ ‘ông đồ’ là một bài thơ vô cùng ý nghĩa, người viết cảm thấy tiếc nuối cho nền văn chương một thời rất vĩ đại. Ở hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ, tác giả đã tạo ra không khí Tết xưa, khi mà các ông đồ vẫn được tôn kính và trọng dụng. Khi mùa xuân tới, hoa đào nở rộ và đường phố đông đúc, sôi động thì các ông đồ sẽ xuất hiện để viết và bán những câu đối cho người dân có thể trưng bày ở trong nhà vào ngày đầu năm mới như một văn hóa rất cần thiết. Nét chữ thanh nhã tựa như phượng múa rồng bay, truyền tải được tâm hồn và tấm lòng của người viết. Nhưng theo thời gian, nét đẹp treo câu đối vào dịp Tết không còn được phổ biến nữa. Chữ “nhưng” như một nốt trầm ở trong bài hát mùa xuân, biểu thị bước đi vô cùng chậm rãi của thời thế đổi thay. Niềm vui nho nhỏ của ông đồ chính là có thể đem đến niềm vui nào đó cho mọi người vào dịp Tết bằng nét chữ viết tay của mình và giờ đây thì mùa xuân đã qua đi. Nỗi buồn của lòng người cũng khiến cho những đồ vật vô tri như là giấy đỏ, bút nghiên cũng cảm thấy rất buồn bã. Hình tượng của ông đồ xưa gắn liền với nét đẹp truyền thống của nền văn hóa Nho giáo giờ đây cũng dần bị lãng quên: “Lá vàng bay trên giấy/ ngoài trời mưa bụi bay’. Ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng hầu như không có ai để ý, những chiếc lá vàng rơi trên mặt giấy vẫn nhợt nhạt giữa một ngày xuân và nhạt nhòa như sắp tàn. Những hạt bụi và những giọt mưa bay bay trong không khí lạnh lẽo giống như đang khóc, tạm biệt một thời đại đang dần trôi đi về quá khứ. Qua bốn đoạn thơ, người đọc có thể thấy tâm trạng của nhà thơ cùng với tình cảm thương xót tinh tế, sự hoài niệm về một thời đã qua của nhà thơ. Và câu hỏi cuối bài thơ giống như một lời tự vấn cũng như hỏi thăm con người, hỏi về quá khứ với biết bao nỗi buồn: ‘những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ’. Sự vắng mặt của ông đồ không chỉ thể hiện sự chấm dứt một thời đại đã qua mà còn là mốc đánh dấu sự biến mất của những truyền thống văn hóa tốt đẹp của một dân tộc. Bài thơ đã chạm đến lòng người, để lại những suy nghĩ vô cùng sâu sắc trong mỗi người.

2.6 Bài tham khảo 6

Hình ảnh của ông đồ đã được in sâu vào tâm trí của Vũ Đình Liên và hiện hình thành bức tranh thơ vô cùng giản dị nhưng lại sinh động. Trong khổ đầu tiên, cặp từ “mỗi…lại” được xuất hiện tuần hoàn, song hành cho ta thấy được sự lặp đi lặp lại đã trở thành nếp và thành quy luật quen thuộc. Hoa đào từ lâu đã trở thành một sứ giả báo tin xuân. Bởi vậy khi nói đến “hoa đào nở” cũng là nhắc ta về thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ với năm mới đang đến gần. Cứ khi hoa đào nở là lại thấy hình ảnh ông đồ già xuất hiện cùng với mực tàu, giấy đỏ ở bên phố nhộn nhịp người người đi lại sắm tết. Lời thơ tuy từ tốn nhưng chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm một góc rất nhỏ “trên phố” nhưng ở trong bức tranh thơ này, ông đồ lại chính là tâm điểm, điềm đạm và lặng lẽ, ông đồ hoà nhập vào với sự náo nức và rộn ràng của cuộc đời bằng chính những thứ quý giá nhất mà ông có. Một bức tranh ngày tết mà ông đồ đang  là trung tâm. Đoạn thơ giới thiệu một cách trọn vẹn không gian, thời gian, nhân vật và tạo tiền đề cho câu chuyện tiếp tục ở những khổ thơ phía sau: “Bao nhiêu người thuê viết/Tấm tắc ngợi khen tài/Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa rồng bay”. Từ phố đông, không gian được thu hẹp lại xung quanh chỗ ông đồ ngồi viết chữ. Câu thơ ấm ran sự sống bằng từ chỉ số lượng có tính chất phiếm định “bao nhiêu” cùng tính từ “tấm tắc” biểu đạt về sự thán phục, ngợi ca và trân trọng. Thời gian được tính bằng hoa đào nở y như tín hiệu báo xuân, sắc màu được dệt thành bởi sắc đào tươi thắm, giấy đỏ rực rỡ cùng nhịp sống được tính bằng những con phố đông người qua, tình cảm của người đời thì được biểu hiện bằng hình ảnh: “Bao nhiêu người thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài”. Nổi bật ở trên phông nền rực rỡ và tươi vui đó chính là chân dung của ông đồ, người nghệ sĩ trong niềm thán phục và ngưỡng mộ của mọi người. Hoa đào tới đây đã nhường chỗ cho hoa tay y bàn tay tài hoa của ông đồ đưa tới đâu mà như gấm hoa nở ra tới đó. Nét chữ từ bàn tay giống như phép tiên của ông được so sánh với phượng múa rồng bay. Đây là hình ảnh so sánh rất đẹp, giàu giá trị tạo hình, nét thăng hoa ở trong ngôn ngữ của tác giả Vũ Đình Liên gợi tả về nét chữ mềm mại mà linh thiêng, phóng khoáng lại cao nhã, có hồn giống như phượng múa, rồng bay. Nét chữ đó dường như cũng chấp chới bay lên giữa những hào quang của trời xuân và của sắc đào tươi thắm. Đây là một nét vẽ rất đẹp, ngợi ca ông đồ, một tài năng nghệ thuật.

 

Khóa học DUO dành riêng cho các em bậc THCS từ nhà trường VUIHOC, các em sẽ được học cùng các thầy cô TOP trường điểm quốc gia với kinh nghiệm giảng dạy phong phú. Đăng ký học thử để được trải nghiệm buổi học trực tuyến hoàn toàn miễn phí nhé!

3. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc bài thơ “Tiếng gà trưa”

3.1 Bài tham khảo 1

Xuân Quỳnh có rất nhiều tác phẩm hay, trong đó có bài Tiếng gà trưa đã để cho tôi rất nhiều ấn tượng sâu sắc. Khi đọc bài thơ, dường như mỗi người chúng ta đều sẽ cảm thấy như được quay về những năm tháng của tuổi thơ. Nhân vật trữ tình được nhà thơ khắc họa là một người chiến sĩ rời xa ngôi nhà nhiều năm, trên đường hành quân xa xôi, anh đã dừng chân lại bên xóm nhỏ. Bất ngờ, có tiếng gà vang lên: “Cục... cục tác... cục ta” khiến anh nhớ đến những kỉ niệm của thời tuổi thơ. Hình ảnh về những ổ rơm hồng chứa đầy trứng, con gà mái mơ hay con gà mái vàng chắc hẳn đã quá đỗi quen thuộc với bất cứ đứa trẻ nào sinh sống ở thôn quê. Thú vị nhất có lẽ phải nhắc tới kỉ niệm về một lần xem trộm gà đẻ trứng rồi bị bà mắng. Lời trách của bà đã giúp cho tôi cảm nhận được rõ hơn về sự quan tâm, lo lắng cùng với sự yêu thương của bà dành cho cháu. Nhưng tiếng gà trưa không chỉ gợi cho người chiến sĩ về những kỉ niệm tuổi thơ, mà còn chính là hình ảnh người bà. Xuân Quỳnh đã khắc họa nên một người bà tần tảo, chịu khó và rất giàu đức tính hi sinh. Những câu thơ được đọc lên mà thật xúc động nghẹn ngào biết bao. Bà luôn lo lắng khi trời làm sương muối có thể khiến đàn gà đổ bệnh. Bởi vậy bà mong sao cho để mưa thuận gió hòa, thời tiết thuận lợi cho  đàn gà có thể lớn lên một cách khỏe mạnh. Cuối năm bà sẽ bán đàn gà ấy đi để mua cho cháu một bộ quần áo mới để có thể đi đón Tết. Với người cháu, hạnh phúc chẳng hiện hữu ở ngay những điều bình dị và giản đơn nhất trong cuộc sống đời thường. Ở khổ thơ cuối cùng, người cháu đã khẳng định rất rõ ràng mục đích chiến đấu. Chúng ta thấy được tình yêu quê hương, yêu đất nước và hơn hết chính là tình yêu dành cho bà của người chiến sĩ. Tiếng gọi “Bà ơi” vang lên một cách trìu mến, yêu thương. Cháu chiến đấu cũng vì mong muốn có thể đem đến cuộc sống hòa bình cho bà. Điều này gợi cho chúng ta về những ấn tượng thật tốt đẹp của hình ảnh người chiến sĩ. Có thể khẳng định rằng, với ngôn ngữ hết sức giản dị, hình ảnh gần gũi, bài thơ Tiếng gà trưa đã cho người đọc thấy được tình bà cháu thật đẹp đẽ.

3.2 Bài tham khảo 2 

Bài thơ “Tiếng gà trưa” của tác giả Xuân Quỳnh đã gợi nhắc cho người đọc về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ, cũng chính là tình cảm bà cháu đầy sâu sắc. Nhân vật trữ tình ở trong bài là một người chiến sĩ xa nhà khá nhiều năm, trên con đường hành quân xa xôi, anh được dừng chân ở bên xóm nhỏ để nghỉ ngơi, nghe thấy có tiếng gà trưa mà nhớ lại những kỉ niệm tuổi thơ. Người chiến sĩ đã nhớ đến hình ảnh của những ổ rơm hồng đầy trứng, hình ảnh của con gà mái mơ, gà mái vàng với những màu sắc rất riêng biệt, độc đáo. Thú vị nhất có lẽ phải nhắc tới kỉ niệm về một lần đi xem trộm gà đẻ trứng rồi bị bà mắng. Lời trách của bà đã giúp tôi cảm nhận rõ hơn về sự quan tâm và lo lắng của bà dành cho cháu. Tiếng gà trưa không chỉ gợi cho người chiến sĩ về những kỉ niệm tuổi thơ, mà đó còn là hình ảnh của người bà tần tảo, hy sinh. Bà mang những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ của người Việt Nam. Hình ảnh đôi bàn tay chai sần của bà hiện lên thật đẹp làm sao. Bà luôn lo lắng trời làm sương muối làm cho đàn gà đổ bệnh. Bởi vậy mà bà mong sao cho mưa thuận gió hòa để thời tiết thuận lợi cho đàn gà có thể lớn lên thật khỏe mạnh, cuối năm bà có thể bán chúng đi và mua cho cháu một bộ quần áo mới để đón Tết. Tiếng gà trưa còn gợi cháu về những giấc mơ hạnh phúc. Có lẽ, với cháu, hạnh phúc chẳng hiện hữu ở ngay những điều bình dị, giản đơn nhất có trong cuộc sống đời thường. Khi trưởng thành, cháu tham gia vào chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trước hết đó chính là vì lòng yêu đất nước - “vì lòng yêu Tổ quốc”, sau đó cũng vì tình yêu quê hương - “yêu xóm làng thân thuộc”. Và hơn hết đó còn là vì người bà - “Bà ơi, cũng vì bà”. Tiếng gọi “Bà ơi” vang lên rất trìu mến và yêu thương. Cháu chiến đấu cũng chỉ mong muốn có thể đem đến cuộc sống hòa bình cho bà. Có thể khẳng định, “Tiếng gà trưa” với những ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi đã giúp cho người đọc cảm nhận được tình bà cháu rất đẹp đẽ. Qua đó, chúng ta cũng có thể hiểu hơn về vẻ đẹp của người chiến sĩ vào thời kỳ chiến tranh.

3.3 Bài tham khảo 3 

"Tiếng gà trưa" của tác giả Xuân Quỳnh đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc vô cùng sâu lắng về tình bà cháu. Trong hoàn cảnh đặc biệt, người cháu thì đang "trên đường hành quân xa", nghe thấy có tiếng gà trưa "Cục... cục tác cục ta" mà nhớ lại tuổi thơ được sống bên bà. Tiếng gà nhảy ổ như phá vỡ đi sự yên bình của nắng trưa cùng với tâm hồn cháu, làm lòng cháu thêm phần xao động, bồi hồi "Nghe bàn chân đỡ mỏi/ Nghe gọi về tuổi thơ". Xuôi dòng kí ức, tiếng gà trưa đã gợi lên hình ảnh về ổ rơm hồng của con gà mái mơ "Khắp mình hoa đốm trắng". Hình ảnh vô cùng đẹp đẽ và quen thuộc ấy là hình ảnh gắn liền với tuổi thơ mà cháu được bên bà. Cháu nhớ đến bóng dáng của người bà hiền từ, chắt chiu, dành dụm từng quả trứng để con gà mái ấp. Đó còn là những giây phút khi bà chăm sóc đàn gà trong thời tiết vô cùng khắc nghiệt "Khi gió mùa đông tới/ Bà lo đàn gà toi/ Mong trời đừng sương muối/ Để cuối năm bán gà" để có thể mua được cho cháu bộ đồ mới. Bà như một người mẹ dạy bảo và nuôi dưỡng cháu trong suốt quãng thời gian ấu thơ. Bà dành tất cả tình yêu thương, sự chăm sóc cho người cháu bé bỏng của mình. Để rồi, hình bóng của bà luôn song hành cùng với non sông, đất nước trên con đường mà cháu đi, trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc để cháu chiến đấu. Những lời thơ giàu cảm xúc và hình ảnh thơ gần gũi cùng những biện pháp điệp ngữ "tiếng gà trưa", ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đó là "Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục... cục tác cục ta/ Nghe xao động nắng trưa..." góp phần khắc họa về tình cảm bà cháu thắm thiết và sâu nặng. Qua đó, bài thơ đã khơi gợi trong mỗi chúng ta về những tình cảm thiêng liêng trong cuộc đời của mỗi người - tình cảm gia đình, tình yêu quê hương và yêu đất nước.

3.4 Bài tham khảo 4 

Đọc bài thơ "Tiếng gà trưa" của tác giả Xuân Quỳnh, em lại càng thêm phần trân trọng tình cảm bà cháu thắm thiết và sâu đậm. Trên bước đường hành quân, cháu nghe thấy tiếng gà trưa từ xóm nhỏ để rồi "Dừng chân bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục... cục tác cục ta". Và lòng cháu lại dâng lên nỗi niềm xúc động, thao thức khi nhớ đến tuổi thơ bên những ổ trứng hồng, nhớ đến những tháng ngày được sống cùng bà. Tiếng gà "Cục... cục tác cục ta" đã xua tan đi những bước chân mệt nhọc, gian khổ khi phải làm nhiệm vụ và đưa cháu trở về với kỉ niệm tuổi thơ. Miên man hồi tưởng theo tiếng gà trưa, cháu có nhớ đến hình ảnh của con gà mái mơ "Khắp mình hoa đốm trắng" và con gà mái vàng "Lông óng như màu nắng" tạo ra một ổ trứng hồng. Nổi bật trên những hình ảnh đẹp đẽ và bình dị ấy, cháu thấy được đôi tay bà cần mẫn và tần tảo chăm chút cho từng quả trứng. Đó còn là ngày mùa đông giá rét, bà chăm sóc và nuôi nấng đàn gà thật cẩn thận để "Cháu được quần áo mới/ Ôi cái quần chéo go/ Ống rộng dài quét đất..." Tất cả sự dịu dàng và yêu thương, bà dành hết tất cả cho cháu. Và tình yêu đó mãi in sâu vào trong kí ức của cháu, luôn theo cháu trên mọi nẻo đường xa xôi. Tình yêu của cháu dành cho bà giống như hòa vào tình yêu lớn lao trước non sông đất nước, là một động lực to lớn để cháu vững tay súng mà chiến đấu. Những câu thơ năm chữ tuy ngắn gọn kết hợp với hình ảnh gần gũi cùng những biện pháp tu từ so sánh "lông óng như màu nắng" và ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục... cục tác cục ta/ Nghe xao động nắng trưa..." mang lại hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam cùng với tình cảm bà cháu sâu nặng. Bài thơ "Tiếng gà trưa" đã khắc họa về những kí ức thật đẹp của tuổi thơ và tình bà cháu cũng như tình yêu quê hương đất nước tha thiết.

3.5 Bài tham khảo 5 

Bài thơ "Tiếng gà trưa" của tác giả Xuân Quỳnh đã để lại trong em nhiều cảm nhận sâu sắc về tình bà cháu. Từ tiếng gà trưa nghe thấy trên bước đường hành quân "Dừng chân bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục... cục tác cục ta" đã khơi dậy nên dòng cảm xúc trong lòng người cháu. Nghe tiếng kêu thân thuộc đó, lòng cháu lại cảm thấy thổn thức, bồi hồi và nhớ về kỉ niệm tuổi thơ tươi đẹp khi bên bà. Cháu nhớ đến những hình ảnh thân thuộc và bình dị ở làng quê Việt Nam như "Ổ rơm hồng những trứng/ Này con gà mái mơ...". Cháu nhớ đến người bà tần tảo và chắt chiu từng quả trứng "Cho con gà mái ấp". Cháu còn nhớ đến những tháng ngày sống trong tình yêu thương bao la của bà. Bà vẫn cần mẫn chăm sóc đàn gà nhỏ để cho cháu được mặc những bộ quần áo mới "Khi gió mùa đông tới/ Bà lo đàn gà toi/ Mong trời đừng sương muối/ Để cuối năm bán gà". Cảm nhận được tình thương bao la và thắm thiết ấy mà bà dành cho cháu, cháu vẫn luôn luôn vững vàng chiến đấu ở nơi chiến trường khói lửa. Tình yêu của cháu dành cho bà như hòa cùng với tình yêu quê hương đất nước, là động lực cho cháu tiến bước về phía trước "Vì lòng yêu Tổ quốc/ Vì xóm làng thân thuộc/ Bà ơi, cũng vì bà/ Vì tiếng gà cục tác". Bằng cách sử dụng biện pháp điệp ngữ "tiếng gà trưa" và so sánh "Lông óng như màu nắng" cùng với thể thơ năm chữ ngắn gọn đã mang tới những kỉ niệm tốt đẹp về tuổi thơ và tình bà cháu. Bài thơ mãi để lại một dấu ấn trong lòng bạn đọc bởi vì những hình ảnh giản dị và thân thuộc cùng với tình cảm bà cháu, tình yêu quê hương, yêu đất nước thiêng liêng, cao cả.

3.6 Bài tham khảo 6

Trong số những tác phẩm văn học đã từng được học, bài thơ “Tiếng gà trưa” của nhà thơ Xuân Quỳnh là bài thơ đã để lại trong lòng em nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Nổi bật trong Tiếng gà trưa chính là vẻ đẹp bình dị và gần gũi của tình bà cháu. Trên đường hành quân mệt mỏi, người cháu đã dừng chân bên một xóm nhỏ để nghỉ ngơi thì nghe được tiếng gà trưa vang lên khiến cho người cháu hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ được sống với bà thân yêu, bà đã hết mực yêu thương mình. Bà chăm chút và nâng niu từng quả trứng cho con gà mái ấp để đến cuối năm bán gà, dành dụm tiền mua cho người cháu bộ quần áo mới. Mặc dù tuổi thơ khi sống bên cạnh bà đầy khó khăn nhưng người cháu lại luôn cảm thấy vô cùng ấm áp, hạnh phúc. Sự tần tảo cùng tình yêu thương của bà đã được in đậm vào trong tâm trí của người cháu. Chỉ một tiếng gà nhảy ổ thôi nhưng đã gợi ra biết bao kỉ niệm đẹp thời thơ ấu đc sống lại trong tình yêu thương bao la của bà. Những kỉ niệm ấy như tiếp thêm chút động lực chiến đấu cho người cháu đang làm chiến sĩ chiến đấu vì Tổ quốc, vì bà và vì xóm làng. Tóm lại, bằng những hình ảnh vô cùng gần gũi và lời thơ bình dị, bài thơ đã cho em thấy về tình cảm bà cháu thật sự thiêng liêng mà đẹp đẽ và giản dị nhưng lại thấm đẫm khó phai.

3.7 Bài tham khảo 7

Xuân Quỳnh là cây bút vô cùng xuất sắc trong nền văn học hiện đại Việt Nam, thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành vào thời kì kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ "Tiếng gà trưa" là một trong những thi phẩm rất nổi tiếng của bà. Bài thơ viết về tình bà cháu thiêng liêng và cảm động biết mấy. Trong một buổi hành quân, người cháu đã vô tình nghe được tiếng gà trưa và những kỉ niệm về bà cũng ùa về trong ký ức. Cả một tuổi thơ gắn bó bên bà và được bà yêu thương chăm sóc. Bà dành dụm, chắt chiu từng quả trứng một, chăm chút đàn gà từng con một kể cả khi trời có gió rét mưa dầm. Những gì thu được từ đàn gà, bà đều để dành cho cháu: nào là cái quần chéo go, ống rộng dài quét đất, nào là cái áo cánh trúc bâu... Tình yêu của bà được thể hiện thông qua những điều giản dị và bình thường. Chính tình yêu thương của bà đã biến thành động lực để cho người cháu chiến đấu. Qua bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được tình bà cháu thắm thiết, đồng thời đó cũng chính là tình yêu gia đình, yêu Tổ quốc. Đúng như một nhà văn nước ngoài đã từng nói: Tình yêu Tổ quốc bắt đầu từ những tình cảm nhỏ bé, thiêng liêng, đó là yêu những gì gần gũi nhất với mình.

 

HỌC ONLINE CÙNG GIÁO VIÊN TOP 5 TRƯỜNG ĐIỂM QUỐC GIA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học cá nhân hóa, giúp con tăng 3 - 6 điểm chỉ sau 1 khóa học

⭐ Học chắc - ôn kỹ, tăng khả năng đỗ vào các trường chuyên cấp 2, cấp 3 

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo mong muốn và thời gian biểu cá nhân 

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô, hỗ trợ con 24/7  

⭐ Học lý thuyết đi đôi với thực hành, kết hợp chơi và học giúp con học hiệu quả 

⭐ Công nghệ AI cảnh báo học tập tân tiến, giúp con tập trung học tập

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập được biên soạn bởi các thầy cô TOP 5 trường điểm quốc gia

Trải nghiệm khóa học DUO hoàn toàn miễn phí ngay!!
 

 

Trên đây là toàn bộ những bài tham khảo cho phần Soạn bài Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ bốn chữ, năm chữ. Hy vọng rằng, sau khi đọc những bài viết tham khảo về 3 chủ đề VUIHOC nêu trên, các em có thể nắm được cách triển khai ý và viết bài với dạng bài này. Ngoài bài soạn phía trên, khi các em muốn tham khảo bài soạn văn khác nói riêng cũng như các bài soạn của những môn học khác nói chung, các em cần nhanh chóng truy cập vào website chính thức vuihoc.vn để có thể đăng ký khoá học cho chính mình nhanh nhất để được nghe giảng và giải đáp các thắc mắc gặp phải từ các thầy cô giáo VUIHOC.

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner after post bài viết tag lớp 7
| đánh giá
Hotline: 0987810990